SDH.NT Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính của ung thư phổi không tế bào nhỏ ở nhóm có và không có đột biến gen EGFR
PDF Download: 6 View: 27

Tóm tắt

Ung thư phổi là một trong những bệnh lý ác tính phổ biến và có tỷ lệ tử vong cao nhất trên toàn cầu, với khoảng 2,5 triệu ca mắc mới và 1,8 triệu ca tử vong mỗi năm. Tại Việt Nam, ung thư phổi tiếp tục là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư, với khoảng 24.426 ca mắc mới và 22.597 ca tử vong hàng năm. Trong số các loại ung thư phổi, ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) chiếm khoảng 85% tổng số ca mắc, phần lớn được chẩn đoán ở giai đoạn tiến xa, khi phẫu thuật triệt căn không còn là lựa chọn khả thi. Hóa trị đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát bệnh, giúp kéo dài thời gian sống và cải thiện chất lượng cuộc sống, nhưng hiệu quả điều trị còn nhiều hạn chế. Việc phát triển các liệu pháp nhắm trúng đích, đặc biệt là thuốc ức chế Tyrosine Kinase (TKIs), đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong điều trị UTPKTBN, đặc biệt ở bệnh nhân có đột biến thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu mô (EGFR). Đột biến EGFR không chỉ là một yếu tố tiên đoán quan trọng cho đáp ứng với TKIs mà còn giúp tối ưu hóa chiến lược điều trị, cải thiện tiên lượng bệnh nhân. Theo các nghiên cứu, khoảng 70%–80% bệnh nhân UTPKTBN mang đột biến EGFR có đáp ứng tốt với TKIs (4). Xét nghiệm đột biến EGFR trước khi sử dụng TKIs đã trở thành một tiêu chuẩn trong các phác đồ điều trị hiện nay. Tuy nhiên, trong thực tế lâm sàng, việc thu thập đủ mô để xét nghiệm không phải lúc nào cũng khả thi, đặc biệt đối với những bệnh nhân có tổn thương nhỏ hoặc vị trí khó tiếp cận. Hơn nữa, nghiên cứu của Taniguchi và cộng sự cho thấy rằng sự không đồng nhất của khối u có thể dẫn đến sự hiện diện đồng thời của cả tế bào có và không có đột biến EGFR trên cùng một mẫu mô, gây ảnh hưởng đến độ chính xác của xét nghiệm. Vì vậy, việc dự đoán tình trạng đột biến EGFR không nên chỉ dựa trên xét nghiệm mô bệnh học mà cần kết hợp với các yếu tố lâm sàng và hình ảnh học để nâng cao độ chính xác. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra một số yếu tố lâm sàng có liên quan đến đột biến EGFR, bao gồm giới tính nữ, không hút thuốc, nguồn gốc châu Á và ung thư biểu mô tuyến. Tuy nhiên, những 2 nghiên cứu gần đây cho thấy rằng kết hợp các đặc điểm hình ảnh trên cắt lớp vi tính (CLVT) với yếu tố lâm sàng có thể cải thiện khả năng dự đoán đột biến EGFR một cách chính xác hơn (5). Điều này mở ra hướng tiếp cận mới trong tiên lượng tình trạng đột biến EGFR thông qua phân tích hình ảnh học, từ đó hỗ trợ bác sĩ trong quyết định điều trị tối ưu. Mối liên hệ giữa đặc điểm hình ảnh CLVT và đột biến gen EGFR trong UTPKTBN đã được nghiên cứu trên thế giới, tuy nhiên, tại Việt Nam, số lượng nghiên cứu trong lĩnh vực này còn hạn chế. Hơn nữa, đặc tính đột biến EGFR có sự khác biệt theo chủng tộc, và Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ đột biến EGFR cao nhất. Việc xác định mối liên quan giữa đặc điểm hình ảnh CLVT và đột biến EGFR có thể hỗ trợ tiên lượng bệnh và tối ưu hóa chiến lược điều trị. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu:“Đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính của ung thư phổi không tế bào nhỏ ở nhóm có và không có đột biến gen EGFR" với hai mục tiêu: 1. Mô tả đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính của ung thư phổi không tế bào nhỏ ở nhóm có và không có đột biến EGFR.
2. Xác định các đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính của ung thư phổi không tế bào nhỏ có liên quan đến đột biến gen EGFR.

- Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước:  Nghiên cứu của Xiaoyu Han và cộng sự (2021): Giá trị của các đặc điểm CLVT để dự đoán đột biến EGFR và ALK ở bệnh nhân ung thư phổi biểu mô tuyến. Nghiên cứu của tác giả người Trung Quốc năm 2021, nghiên cứu trên 827 bệnh nhân ung thư phổi biểu mô tuyến. Trong đó, tỉ lệ đột biến gen EGFR là 59.1%. Tỷ lệ đột biến EGFR ở giai đoạn I – II (theo TNM) là tương tự như ở nhóm giai đoạn III – IV. Trong nhóm tổn thương bán đặc và kính mờ, tỉ lệ đột biến gen EGFR là 78.7% với p < 0.001. Dấu hiệu phế quản hơi gặp trong 43% nhóm có đột biến gen EGFR và 18% nhóm không đột biến gen EGFR, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p 0.001. Ngoài ra, các dấu hiệu, đặc diểm khác cũng được đưa vào nghiên cứu như: vị trí, kích thước tổn thương, dấu hiệu hình thuỳ múi, dấu hiệu bờ tua gai, tràn dịch màng phổi, tổn thương tạo hang, di căn hạch trung thất...Nghiên cứu chỉ ra, không có sự liên quan giữa tình trạng đột biến gen EGFR và các đặc điểm hình ảnh này (25). - Nghiên cứu của Ortiz và cộng sự (2022) về mô hình lâm sàng và đặc điểm CLVT để dự đoán bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ trên 192 bệnh nhân ung thư phổi biểu mô tuyến. Tỉ lệ đột biến gen EGFR là 37% (71/192). Trong nhóm tổn thương bán đặc và kính mờ, tỉ lệ đột biến gen EGFR là 65.4%, cao hơn không đột biến gen là 34.62% với p < 0.0013. Dấu hiệu phế quản hơi gặp có tỉ lệ đột biến gen EGFR là 45.24%; nhóm không có dấu hiệu này, tỉ lệ đột biến là 30.56% sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0.036. Ngoài ra, các dấu hiệu, đặc diểm khác cũng được đưa vào nghiên cứu như: vị trí, kích thước tổn thương, dấu hiệu hình thuỳ múi, tràn dịch màng phổi, tổn thương tạo hang, di căn hạch trung thất... Nghiên cứu chỉ ra, không có sự liên quan giữa tình trạng đột biến gen EGFR và các đặc điểm hình ảnh này.

- Nghiên cứu của Liu và cộng sự năm 2016 trên 385 bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến với tỉ lệ đột biến gen EGFR là 43,6%. Đột biến được tìm thấy thường xuyên hơn ở bệnh nhân nữ, kích thước khối u nhỏ, đường bờ dạng tua gai, với P < 0.001. 14 Dấu hiệu phế quản hơi gặp có tỉ lệ đột biến gen EGFR là 45.24%; nhóm không có dấu hiệu này, tỉ lệ đột biến là 30.56% sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0.06. Dấu hiệu ngấm thuốc cản quang không đồng nhất được tìm thấy nhiều hơn ở nhóm có đột biến gen EGFR với p= 0.001. Qua nghiên cứu cho kết quả các đặc điểm hình ảnh CLVT của ung thư biểu mô tuyến phổi kết hợp với các biến số lâm sàng có thể được sử dụng để tiên lượng tình trạng đột biến EGFR tốt hơn việc chỉ sử dụng các biến số lâm sàng.
 - Nghiên cứu của Khúc Duy Mạnh và cộng sự: “Đánh giá mối liên quan giữa đặc điểm hình ảnh trên CLVT và tình trạng đột biến gen EGFR ở bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến” trên 138 bệnh nhân ung thư phổi biểu mô tuyến tại bệnh viện K Trung Ương, trong đó có 68 trường hợp đột biến gen EGFR chiếm tỉ lệ # 50.7%. Nghiên cứu chỉ ra rằng có mối liên quan giữa tình trạng đột biến gen EGFR với các đặc điểm hình ảnh như: dấu hiệu phế quản đồ (p=0.001), dấu hiệu đuôi màng phổi (p= 0,001), tổn thương tính chất bán đặc (p= 0,016), dấu hiệu đường viền kính mờ quanh tổn thương (p=0,037), tổn thương tạo hang (p= 0,015). Không có sự liên quan giữa tình trạng đột biến gen EGFR với các đặc điểm hình ảnh đường bờ tổn thương, tình trạng hoại tử u, hạch trung bất thường trung thất,. Tóm lại, các nghiên cứu đều đưa ra kết luận là có nhiều đặc điểm hình ảnh trên CLVT phổi ở bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến phổi có liên quan đến tình trạng đột biến gen EGFR. Tuy nhiên vẫn còn nhiều dấu hiệu chưa thống nhất giữa các nghiên cứu, điều này có thể được giải thích bởi sự khác biệt về địa dư, chủng tộc,…. Trong đó Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ đột biến gen EGFR cao trên thế giới. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này để xác định các đặc điểm hình ảnh CLVT ở bệnh nhân ung thư biểu mô phổi không tế bào nhỏ liên quan với tình trạng đột biến gen EGFR để xác định các yếu tố có liên quan nhằm giúp bác sỹ lâm sàng cân nhắc chẩn đoán trong các trường hợp nghi ngờ hoặc khó khăn trong việc đưa ra chẩn đoán.

- Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
  Gồm các bệnh nhân đến khám và điều trị bệnh ung thư phổi tại Bệnh viện Trường Đại học Y – Dược Huế và bệnh viện Trung ương Huế từ tháng 02 năm 2025 đến tháng 10 năm 2026.  Tiêu chuẩn chọn bệnh Bệnh nhân được chẩn đoán ung thư biểu mô phổi tại Bệnh viện Trường đại học Y Dược - Đại học Huế và Bệnh viện Trung ương Huế. Có kết quả mô bệnh học là UTPKTBN Bệnh nhân có chụp CLVT ngực đúng kỹ thuật trước khi điều trị Bệnh nhân có kết quả xét nghiệm tìm đột biến gen EGFR Tiêu chuẩn loại trừ Các trường hợp chụp CLVT không đúng kỹ thuật Bệnh nhân đã điều trị trước khi làm xét nghiệm đột biến EGFR Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu nghiên cứu Cỡ mẫu thuận tiện trong thời gian nghiên cứu. Phương tiện nghiên cứu Máy chụp CLVT tại bệnh viện Trường đại học y dược – Đại học Huế và tại bệnh viện Trung ương Huế. Các bệnh phẩn tại bệnh viện Trường đại học y dược – Đại học Huế và bệnh viện Trung ương Huế được lấy từ sinh thiết hoặc phẫu thuật, tất cả các mẫu bệnh phẩm đều được chẩn đoán xác định bằng nhuộm HE thường quy và hóa mô miễn dịch, sau đó xác định đột biến gen EGFR ở nhóm UTPKTBN bằng phương pháp RT PCR. 16 Hệ thống lưu trữ và truyền hình ảnh (PACS) của bệnh viện Trường đại học y dược – Đại học Huế và tại bệnh viện Trung ương Huế. Phiếu thu thập thông tin dung để thu thập các biến số bao gồm đặc điểm hình ảnh và các thông tin lâm sàng của bệnh nhân. Các bước tiến hành nghiên cứu Tiến hành lấy mẫu tại bệnh việnTrường đại học y dược – Đại học Huế và tại bệnh viện Trung ương Huế. Phân tích các đặc điểm hình ảnh trên CLVT lồng ngực Ghi nhận kết quả mô bệnh học sau sinh thiết hoặc sau phẫu thuật. Ghi nhận kết quả xét nghiệm tìm đột biến gen EGFR Phân tích và xử lý số liệu.

- Kỹ thuật nghiên cứu:
+ Phương tiện nghiên cứu Máy CLVT đa dãy đầu thu (64 dãy) GE ACT Revolution tại khoa Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế. Máy CLVT đa dãy đầu thu (32 dãy) GE ACT Revolution tại khoa Chẩn đoán hình ảnh Bệnh viên Trung ương Huế.
+  Kỹ thuật chụp CLVT ngực Bệnh nhân nằm ngửa trên bàn, hai tay để cao hai bên đầu. Tùy vào cách cài đặt máy có thể cho bệnh nhân hướng đầu về phía gantry hoặc để chân bệnh nhân hướng về gantry. Điều chỉnh bệnh nhân nằm theo các tia lazer định vị. Dặn dò bệnh nhân nín thở trong quá trình chụp theo yêu cầu. Mặt phẳng cắt: axial, gantry thẳng đứng. Giới hạn cắt: Từ đỉnh phổi đến hết túi cùng màng phổi hai bên, bao gồm cả tuyến thượng thận. Để chế độ cửa sổ cho cả nhu mô phổi, trung thất. Chế độ cắt: cắt xoắn ốc liên tục trong một lần nín thở. Quy trình chụp CLVT ngực có tiêm thuốc tương phản tại bệnh viện trường đại học Y dược – Đại học Huế và bệnh viện Trung ương Huế.
+ Lấy mẫu bệnh phẩm và xét nghiệm mô bệnh học chẩn đoán Sinh thiết U phổi qua thành ngực dưới hướng dẫn CLVT hoặc siêu âm Sinh thiết lõi nốt phổi dưới hướng dẫn CLVT với các nốt nằm trong nhu mô phổi lành và sinh thiết lõi dưới hướng dẫn siêu âm đối với các tổn thương nằm sát thành ngực. Mỗi tổn thương lấy 3-4 mẫu lõi mô, cố định trong lọ đựng mẫu có chứa formalin (formol 10%) và gửi khoa Giải phẫu bệnh đọc kết quả. Kỹ thuật lấy mẫu sử dụng kim sinh thiết 16-18G, có mẫu mô đạt yêu cầu để cắt nhuộm.
+ Các phương pháp phát hiện đột biến gen EGFR và biểu lộ protein EGFR Hiện nay có rất nhiều phương pháp khác nhau có thể được áp dụng để xác định sự biểu lộ Protein EGFR trên màng tế bào, cũng như phát hiện đột biến gen EGFR.

- Kết quả nghiên cứu:

+ Nghiên cứu thực hiện trên ung thư phổi không tế bào nhỏ phù hơp với tiêu chuẩn chọn bệnh từ 02/2025 đến 10/2026. Qua quá trình thu thập, xử lý số liệu thu nhận được các kết quả như sau:
 Đặc điểm cung của đối tượng nghiên cứu
 Các đặc điểm tổn thương trên CLVT và mối liên quan với tình trạng đột biến gen EGFR.

PDF Download: 6 View: 27