Tóm tắt
Phẫu thuật nội soi cắt thùy phổi đã trở thành một tiêu chuẩn trong phẫu thuật ung thư phổi, nó ít xâm lấn hơn và thời gian nằm viện trung bình ít hơn. Tuy vậy, phẫu thuật nội soi lồng ngực vẫn gây cơn đau hậu phẫu cấp tính do vết mổ, ống dẫn lưu, cũng như tình trạng sưng viêm quanh cấu trúc thành ngực lân cận. Giảm đau kém sau phẫu thuật có thể cản trở quá trình phục hồi, làm tăng nguy cơ phát triển các biến chứng như xẹp phổi, nhiễm trùng ngực, và có thể dẫn đến đau thần kinh mạn tính. Quản lý hiệu quả cơn đau cấp tính sau phẫu thuật ngực có thể ngăn ngừa các biến chứng này và giảm khả năng phát triển thành đau mãn tính. Hơn nữa, việc kiểm soát cơn đau cấp tính hiệu quả sẽ bảo tồn chức năng miễn dịch, bằng cách ức chế phản ứng căng thẳng sau phẫu thuật.
Các tổn thương mô cấp tính do phẫu thuật nếu không được ngăn chặn tốt sẽ gây ra hiện tượng: lên dây cót (wind-up) và nhạy cảm trung ương (central sensitization). Những hiện tượng này hoạt động thông qua thụ thể NMDA (N-methyl-D-aspartate) ở sừng sau tủy sống và làm thay đổi quá trình dịch mã của gen ở tế bào thần kinh cảm giác ở sừng sau tủy sống. Kết quả của quá trình này là tình trạng đau mạn tính. Hơn nữa, khi hiện tượng nhạy cảm trung ương đã được hình thành, các kích thích ngoại biên không thể được loại trừ ngay lập tức bằng các thuốc gây tê tại chỗ nữa và cần một lượng lớn morphin để dập tắt hiện tượng này.
Một phương pháp tiếp cận đa mô thức để giảm đau được các bác sĩ gây mê sử dụng rộng rãi bằng cách kết hợp gây tê vùng và thuốc giảm đau toàn thân giúp đạt được hiệu quả giảm đau và hạn chế tác dụng không mong muốn của thuốc so với khi dùng một tác nhân riêng lẻ.
Trong các phương pháp giảm đau sau mổ vùng ngực, tê cạnh sống được khuyến nghị làm phương pháp giảm đau cho phẫu thuật nội soi lồng ngực. Nó cung cấp giảm đau sau phẫu thuật tương đương với giảm đau ngoài màng cứng ngực với ít tác dụng không mong muốn. Hầu hết các nghiên cứu về tê cạnh sống để giảm đau sau phẫu thuật ung thư phổi trên thế giới đều cho thấy hiệu quả tốt về giảm đau, giảm lượng thuốc phiện tiêu thụ và giảm nguy cơ phát triển thành đau mạn tính.
Ketamin, thuốc đối vận không cạnh tranh với thụ thể NMDA (N-methyl-D-aspartate) là thuốc được dùng để gây mê khi sử dụng liều cao. Liều thấp ketamin gần đây được chú ý bởi tác dụng giảm đau và giảm lượng opioid tiêu thụ, giảm buồn nôn và nôn sau mổ. Trong những năm gần đây, có nhiều tác giả nghiên cứu về tác động giảm đau của ketamin liều thấp tuy nhiên kết quả lại rất khác biệt. Lý do của sự khác biệt bởi cách tiến hành nghiên cứu của các tác giả rất khác nhau về liều lượng, đường dùng, thời điểm can thiệp và loại phẫu thuật. Vì vậy để đưa ketamin liều thấp vào phác đồ điều trị đau sau mổ thường quy cần thêm các nghiên cứu .
Do đó, trên quan điểm điều trị đau đa mô thức và tìm ra phương pháp điều trị đau tối ưu cho các bệnh nhân phẫu thuật nội soi cắt thùy phổi, chúng tôi thực hiện nghiên cứu: “Đánh giá hiệu quả giảm đau của ketamin tĩnh mạch kết hợp với ropivacain gây tê cạnh sống trong phẫu thuật cắt thùy phổi nội soi” với 2 mục tiêu:
- Đánh giá hiệu quả giảm đau của ketamin tĩnh mạch kết hợp với ropivacain 0,5% gây tê cạnh sống so với gây tê cạnh sống đơn thuần trong phẫu thuật cắt thùy phổi nội soi.
- Khảo sát tác dụng không mong muốn của 2 phương pháp giảm đau.