Tóm tắt
Vô sinh ảnh hưởng đến khoảng 8–12% các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản trên toàn cầu. Ở Việt Nam hiện nay, tình trạng vô sinh xảy ra ở 8% tổng số cặp vợ chồng, tương đương gần 1 triệu cặp vợ chồng. Tổ chức Y tế Thế Giới (WHO) đã thực hiện một nghiên cứu đa quốc gia quy mô lớn nhằm xác định tỷ lệ phân bố giới tính và các nguyên nhân gây vô sinh. Nghiên cứu này cho thấy nguyên nhân vô sinh do nữ giới chiếm 37% các cặp vợ chồng vô sinh và tăng prolactin máu chiếm 7% trong số các nguyên nhân gây vô sinh ở nữ giới. Trong một nghiên cứu trên 1607 bệnh nhân tăng prolactin máu được điều trị, tỷ lệ mắc bệnh ước tính khoảng 10 trên 100.000 ở nam giới và 30 trên 100.000 ở nữ giới, với tỷ lệ mắc cao nhất ở phụ nữ từ 25–34 tuổi. Mức prolactin vượt quá giới hạn trên của giá trị tham chiếu trong phòng xét nghiệm, hay "tăng prolactin máu sinh hóa", có thể được phát hiện lên đến khoảng 10% dân số. Tỷ lệ hiện mắc được báo cáo dao động từ 0,4% trong dân số trưởng thành khỏe mạnh tại Nhật Bản đến 5% trong nhóm bệnh nhân tại phòng khám kế hoạch hóa gia đình. Tỷ lệ này còn cao hơn ở những bệnh nhân có các triệu chứng đặc trưng liên quan đến tăng prolactin máu: khoảng 9% ở phụ nữ vô kinh, 25% ở phụ nữ bị tiết sữa bất thường, lên đến 70% ở phụ nữ có cả vô kinh và tiết sữa bất thường.
Các nguyên nhân gây tăng prolactin bao gồm mất sự ức chế của dopamine dưới tác động của thuốc chống loạn thần hoặc do sự phá hủy vùng dưới đồi hoặc trục dưới đồi - tuyến yên. Các khối u tiết prolactin cũng có thể gây dư thừa prolactin, như trong trường hợp u tuyến yên tiết prolactin. Phụ nữ vô sinh thường mắc hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS), trong đó tăng prolactin máu là một hiện tượng đi kèm với tình trạng kháng insulin và rối loạn chức năng tế bào beta tuyến tụy. Những rối loạn chuyển hóa này ảnh hưởng đến chu kỳ rụng trứng và làm trầm trọng thêm các vấn đề sinh sản [7]. Ngoài ra, hormone giải phóng thyrotropin (TRH) có tác dụng kích thích tiết prolactin; do đó, khi hormone tuyến giáp giảm trong suy giáp, cơ chế phản hồi âm tính lên TRH bị mất, dẫn đến sự gia tăng quá mức PRL và gây tiết sữa.
Tình trạng tăng PRL máu ở phụ thường biểu hiện bằng rối loạn kinh nguyệt, bao gồm chu kỳ kinh không đều, vô kinh, thiểu kinh, kinh thưa, cường kinh hoặc chu kỳ kinh ngắn. Các triệu chứng khác có thể bao gồm tiết sữa bất thường, vô sinh, giảm ham muốn tình dục, đau khi quan hệ, mụn trứng cá, tăng cân, gia tăng mô mỡ và rậm lông. Tăng prolactin máu gây rối loạn tần số và biên độ của xung LH (Lutenizing hormone) ở nữ giới, có thể do tác động vào hiệu quả kích thích estrogen đối với sự phóng thích LH vào giữa chu kỳ. Có bằng chứng cho thấy tăng PRL máu ức chế sự phóng thích gonadotropin hơn là sự tổng hợp. Ngoài ra, nồng độ PRL máu tăng cao trực tiếp ức chế sự bài tiết estradiol và progesterone của buồng trứng, cả ở mức cơ bản lẫn khi có kích thích từ gonadotropin. Ở phụ nữ, tăng prolactin máu mạn tính gây giảm mật độ khoáng xương, đặc biệt trong bối cảnh thiếu hụt estrogen nghiêm trọng.
Mối liên hệ giữa tăng prolactin máu và vô sinh rất phức tạp. Ngay cả khi tình trạng tăng prolactin máu ở mức nhẹ và được phát hiện trong bối cảnh của vô sinh, một số dữ liệu cho thấy prolactin vẫn có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Việc phát hiện sớm tăng prolactin máu có vai trò quan trọng trong thăm khám, chẩn đoán và điều trị vô sinh, giúp nâng cao hiệu quả điều trị. Vì vậy, để khảo sát tình trạng tăng prolactin máu ở phụ nữ vô sinh, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tình trạng tăng prolactin máu ở phụ nữ vô sinh và một số yếu tố liên quan” với hai mục tiêu:
1. Khảo sát đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở phụ nữ vô sinh có tăng prolactin máu.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan của tình trạng tăng prolactin máu ở phụ nữ vô sinh.