Tóm tắt
Hội chứng De Quervain là một trong những nguyên nhân phổ biến với tỉ lệ 1,2% dân số chung gây đau vùng cổ tay, đặc biệt ở phía ngoài của xương quay. Bệnh được mô tả lần đầu bởi bác sĩ phẫu thuật người Thụy Sĩ Fritz De Quervain vào năm 1895 và cho đến nay vẫn là một vấn đề thường gặp trong thực hành lâm sàng. Hội chứng De Quervain xảy ra khi có sự dày lên và thoái hóa nhầy của bao
gân, các chất trung gian viêm là các phân tử được giải phóng trong phản ứng viêm và đóng vai trò quan trọng trong sinh bệnh của DQD bằng cách thúc đẩy sự thu hút của các tế bào miễn dịch đến vùng viêm, tăng tính thấm của mạch máu và gây ra cơn đau, chèn ép gân dạng dài ngón cái (Abductor Pollicis Longus - APL) và gân duỗi ngắn ngón cái (Extensor Pollicis Brevis - EPB) trong khoang xơ-xương tại mỏm trâm quay. Bệnh nhân thường biểu hiện đau khi vận động ngón cái hoặc khi thực hiện động tác nghiêng cổ tay về phía trụ hoặc quay [1, 2]. Tỷ lệ mắc hội chứng De Quervain ngày càng tăng lên do nhu cầu công việc sử dụng nhiều cổ tay, bàn tay, các hoạt động lặp đi lặp lại, kết hợp với trình độ của bác sĩ cũng như các phương pháp hiện đại như siêu âm, MRI giúp cho việc phát hiện bệnh được sớm hơn. Hội chứng này thường gặp ở phụ nữ đang mang thai, các bà mẹ chăm trẻ sơ sinh với động tác bế trẻ ngón cái dạng ra phía ngoài và cổ tay lệch sang bên quay, ngoài ra một số nguyên nhân bao gồm chấn thương ở cổ tay, vận động mạnh ở cổ tay và ngón cái, hoặc có thể là những biến thể giải phẫu ở ngăn mu bàn tay đầu tiên [1, 3, 4]. Việc điều trị DQD khá đa dạng với ban đầu người bệnh có thể mang nẹp cổ tay, dùng thuốc kháng viêm NSAIDs đường uống tiếp đến sẽ lựa chọn tiêm corticosteroid tại chỗ [5]. Trong các trường hợp nghiêm trọng của bệnh De Quervain, khi bệnh nhân không thuyên giảm triệu chứng sau sáu tháng điều trị bằng tiêm corticosteroid hoặc các phương pháp không phẫu thuật khác, cần phải thực hiện phẫu thuật giải phóng khoang duỗi thứ nhất, ngoài ra trong quá trình phẫu thuật chúng ta có thể nhận biết được các bất thường giải phẫu của khoang duỗi thứ nhất là nguyên nhân thất bại của việc điều trị nội khoa và phẫu thuật [6, 7]. Trong bối cảnh đó, kỹ thuật “Wide Awake Local Anesthesia No Tourniquet” (WALANT) đã nổi lên như một giải pháp đột phá. WALANT cho phép tiến hành phẫu thuật dưới gây tê cục bộ kết hợp với epinephrine, loại bỏ hoàn toàn sự cần thiết của tourniquet và các rủi ro liên quan đến gây mê toàn thân. Kỹ thuật này không chỉ giúp bệnh nhân tránh được cơn đau và cảm giác khó chịu do tourniquet mà còn tạo điều kiện cho việc đánh giá chức năng tay ngay trong quá trình phẫu thuật nhờ bệnh nhân vẫn tỉnh táo. Việc áp dụng WALANT trong phẫu thuật giải phóng hội chứng De Quervain mở ra hướng đi mới, hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích vượt trội: giảm thiểu biến chứng, tiết kiệm chi phí, rút ngắn thời gian điều trị và cải thiện trải nghiệm tổng thể cho bệnh nhân [8-12]. Tuy nhiên ở Việt Nam chưa có các nghiên cứu hoặc đề tài cụ thể liên quan đến việc ứng dụng kỹ thuật WALANT, đặc biệt trong phẫu thuật bàn tay đặc biệt về phẫu thuật điều trị hội chứng De Quervain. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài” Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị hội chứng De Quervain ứng dụng kỹ thuật WALANT” với 2 mục tiêu sau:
1. Đánh giá đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và giải phẫu bệnh mạc giữ gân duỗi trong hội chứng De Quervain được điều trị phẫu thuật
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị hội chứng De Quervain ứng dụng kỹ thuật WALANT