Tóm tắt
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh rối loạn chuyển hóa, đặc trưng bởi tình trạng tăng glucose máu mạn tính do cơ thể thiếu hụt về tiết insulin hoặc đề kháng với insulin hoặc cả hai. Tăng glucose máu gây tổn thương nhiều cơ quan trong cơ thể. Theo Liên đoàn Đái tháo đường quốc tế (IDF) năm 2021 có khoảng 537 triệu người mắc bệnh ĐTĐ, con số này dự kiến sẽ đạt 643 triệu vào năm 2030 và 783 triệu vào năm 2045 [45]. Bệnh ĐTĐ típ 2 chiếm đa số các trường hợp bị ĐTĐ, bệnh thường khởi phát âm thầm, đôi khi không có triệu chứng rõ ràng nên việc chẩn đoán thường bị chậm trễ. Bệnh đái tháo đường gây ảnh hưởng lớn đến bệnh nhân, gia đình và xã hội.
Suy giáp là một bệnh lý nội tiết khá phổ biến, đặc trưng bởi tình trạng giảm chuyển hóa do thiếu hụt hormone tuyến giáp gây nên tổn thương ở các mô, cơ quan và các rối loạn chuyển hóa. Suy giáp được phân thành suy giáp tiên phát và suy giáp thứ phát, trong đó suy giáp tiên phát thường gặp hơn, chiếm trên 90% các trường hợp. Suy giáp có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng có xu hướng xuất hiện nhiều hơn ở người cao tuổi [8], [23], [40]. Trong nghiên cứu NHANES III tại Mỹ, tỷ lệ dân số mắc bệnh suy giáp là 4,6%[32]. Tại Anh, theo nghiên cứu Whickham, tỷ lệ suy giáp tiên phát ở nữ giới là 0,35% và ở nam giới là 0,06%, nồng độ TSH tăng đáng kể theo tuổi ở phụ nữ sau 45 tuổi [47]. Nghiên cứu của Framingham nhận thấy tỷ lệ suy giáp là 4,4% [43]. Tại Việt Nam, theo một vài nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ mắc suy giáp cao ở nữ giới và tăng theo tuổi. Nghiên cứu của Lê Hoàng Bảo [2], tỷ lệ suy giáp trên đối tượng bệnh nhân cao tuổi tại bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh là 8,7%, trong đó suy giáp lâm sàng 1,7%, suy giáp dưới lâm sàng 4,7%, suy giáp đã điều trị về bình giáp 2,3%.
Suy giáp dẫn đến tình trạng rối loạn chuyển hóa các chất trong cơ thể trong đó có glucose máu. Nhiều quan sát đã chỉ ra rằng, có mối quan hệ chặt chẽ giữa tình trạng rối loạn chức năng tuyến giáp và tình trạng rối loạn chuyển hóa glucose máu [42]. Tỷ lệ suy giáp ở bệnh nhân đái tháo đường cao hơn dân số chung, theo các nghiên cứu dao động từ 11 - 23% [25].
Có nhiều chứng cứ rõ ràng chỉ ra rẳng, tỷ lệ suy giáp cao đáng kể ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 [36]. Việc tầm soát để chẩn đoán tình trạng này thường không khó, tuy nhiên trên lâm sàng, người bệnh thường bị bỏ qua, do các triệu chứng của suy giáp thường không đặc trưng và dễ nhầm với các tình trạng khác như: trầm cảm, sa sút trí tuệ, suy yếu…Việc bỏ sót chẩn đoán và điều trị kịp thời có thể gây khó khăn cho việc kiểm soát glucose máu, lipid máu đồng thời có thể là yếu tố xuất hiện cũng như làm nặng thêm các bệnh lý tim mạch như: bệnh mạch vành, suy tim, rối loạn nhịp tim… [11]
Ở Việt Nam hiện tại chưa có nhiều dữ liệu khách quan và cụ thể về vấn đề này. Bệnh viện 22 - 12 khám và quản lý số lượng tương đối lớn người bệnh ĐTĐ típ 2, tuy nhiên hiện tại chưa có nghiên cứu nào về bệnh lý suy giáp ở đối tượng này. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm và một số yếu tố liên quan đến suy giáp tiên phát mới được chẩn đoán ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2” với hai mục tiêu:
- Khảo sát tỷ lệ suy giáp tiên phát mới được chẩn đoán ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2.
- Phân tích đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố liên quan đến tình trạng suy giáp tiên phát ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu.