Tóm tắt
Ung thư vú (UTV) là bệnh ung thư hay gặp nhất ở phụ nữ và cũng là nguyên nhân gây tử vong do ung thư nhiều nhất tại các nước trên thế giới. Theo GLOBOCAN năm 2020, trên toàn thế giới có 2.261.419 trường hợp ung thư vú mới mắc, chiếm 24,5% trong tổng số tất cả các loại ung thư ở nữ giới và số trường hợp tử vong do UTV là 684.996 trường hợp [27]. Tại Việt Nam, UTV là bệnh có tỷ lệ mới mắc cao nhất trong các ung thư ở nữ giới với 21.555 trường hợp mới mắc và 9.345 trường hợp tử vong theo thống kê năm 2020 [19]. Mặc dù tỷ lệ mắc UTV có xu hướng tăng trong những năm gần đây nhưng tỷ lệ tử vong do bệnh vẫn từng bước được cải thiện nhờ các thành tựu đạt được trong phòng bệnh, phát hiện bệnh sớm, chẩn đoán và điều trị.
Theo thống kê ở bệnh viện K từ năm 2007-2013 có khoảng 80% các bệnh nhân UTV được phát hiện ở giai đoạn II-III [18]. Khi xuất hiện di căn hạch nách, việc điều trị không còn là tại chỗ, tại vùng mà đó là sự kết hợp điều trị đa mô thức giữa các phương pháp phẫu thuật, xạ trị, hóa chất, nội tiết và sinh học. Hóa trị bổ trợ sau phẫu thuật với mục đích tiêu diệt các tế bào ung thư ở các ổ vi di căn, giúp giảm tái phát và kéo dài thời gian sống thêm cho người bệnh.
Năm 1976, Bonadona lần đầu tiên đưa hóa chất phác đồ CMF (cyclophosphamide, methotrexat, 5FU) vào điều trị, đánh dấu sự ra đời của điều trị hóa chất bổ trợ trong UTV. Hiệu quả của phác đồ cho thấy cải thiện rõ thời gian sống thêm và giảm tỷ lệ tái phát [7]. Thập niên 80 - 90, nhóm thuốc anthracyclin (doxorubicine, epirubicin) và taxane (paclitaxel, docetaxel) được đưa vào điều trị ung thư vú đã cho những kết quả khả quan, cải thiện thời gian sống thêm toàn bộ và thời gian sống thêm không bệnh.
Vai trò của anthracyclin và taxane được khẳng định qua các thử nghiệm NSABP B-11, B-23, B-28, B-30. Trong những nghiên cứu này nhóm taxane có thể dùng đồng thời hoặc tuần tự với nhóm anthracycline. Từ đó các phác đồ có sự phối hợp giữa anthracycline và taxane được coi là phác đồ mang lại hiệu quả cao nhất trong điều trị ung thư vú và được áp dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng hiện nay [5]. Nhiều nghiên cứu chứng minh phác đồ hóa chất có chứa Anthracyclin kết hợp với Taxan trong điều trị ung thư vú bổ trợ cho thời gian sống thêm không bệnh và thời gian sống thêm toàn bộ đạt hiệu quả cao với tác dụng không mong muốn chấp nhận được [11], [25].
Nhờ những hiệu quả như vậy mà hiện nay phác đồ AC-T đã được sử dụng rất rộng rãi và trở thành quy trình chuẩn trong điều trị UTV bổ trợ sau phẫu thuật đối với nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Nhằm đánh giá hiệu quả và những độc tính có thể gặp của việc áp dụng phác đồ này trong thực hành tại Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với 2 mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư vú giai đoạn II - IIIA được điều trị bổ trợ phác đồ AC-T.
2. Đánh giá kết quả điều trị, độc tính và các yếu tố liên quan của phác đồ bổ trợ AC-T ở nhóm bệnh nhân trên.