Tóm tắt
Ung thư cổ tử cung là một trong 5 loại ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ. Theo ước tính của GLOBOCAN năm 2020 trên thế giới có 604.127 trường hợp mắc mới và 341.831 trường hợp tử vong do ung thư cổ tử cung [50]. Tại Việt Nam, năm 2020 ước tính số ca mới mắc là 4.132 và số ca tử vong do ung thư cổ tử cung là 2.223 ca [21]. Tại TP.HCM, tỉ lệ mắc ung thư cổ tử cung có xu hướng tăng dần, có 2.046 ca mắc ung thư cổ tử cung năm 2005 – 2009 nhưng từ năm 2010 – 2014 số ca mắc là 2.666 ca [3].
Điều trị ung thư cổ tử cung là sự phối hợp đa mô thức dựa trên phân loại giai đoạn bệnh, đặc điểm mô bệnh học . Các mô thức áp dụng trong điều trị ung thư cổ tử cung hiện nay gồm: Phẫu thuật triệt căn ở giai đoạn sớm, hoá xạ trị triệt căn ở giai đoạn tiến xa tại chỗ tại vùng, hóa trị hay xạ trị giảm nhẹ ở giai đoạn muộn di căn xa.
Trong áp dụng kỹ thuật xạ trị hiện nay, phương pháp xạ trị ngoài toàn khung chậu sử dụng kĩ thuật xạ trị 3 chiều phù hợp với mô đích (3D-CRT – Three-Dimensional Conformal Radiotherapy) hay xạ trị điều biến cương độ liều tia (IMRT – Intensity Modulated Radiotherapy) kết hợp xạ trị áp sát suất liều cao nạp nguồn sau HDR là chủ yếu. Với xạ trị áp sát thì kĩ thuật xạ trị áp sát có hướng dẫn hình ảnh IGRT bằng việc chụp CT hay MRI cho mỗi lần xạ trị áp sát được coi là tiêu chuẩn vàng dần thay thế dần kỹ thuật 2D và áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Với kỹ thuật xạ trị kết hợp này, vấn đề đánh giá về liều lượng bao gồm: Liều EQD2 tại khối bướu, liều tại cơ quan lành lân cận; sự phân bố, độ bao phủ của đường đồng liều, độ đồng dạng của đường đồng liều điều trị, độ đồng nhất của phân liều xạ; đánh giá các tác dụng phụ lên bệnh nhân như viêm bàng quang,trực tràng chảy máu, xơ dính âm đạo, hoại tử cổ xương đùi, độc tính lên hệ huyết học… và khả năng dung nạp của bệnh nhân là những vấn đề rất quan trọng liên quan đến thời gian sống thêm toàn bộ, chất lượng sống, đánh giá tái phát và di căn sau điều trị. Các định nghĩa, hướng dẫn áp dụng kỹ thuật xạ trị 3D-CRT, HDR và đánh giá kế hoạch điều trị thường được dựa trên báo cáo ICRU 50/62/83, ICRU-GEC/ESTRO 88. Thời gian theo dõi các biến chứng sớm sau xạ bắt đầu từ khi bệnh nhân được chiếu xạ đến 3 tháng sau điều trị, biến chứng muộn là từ 6 tháng sau điều trị.
Hiện nay, ở Việt Nam trong điều trị ung thư cổ tử cung xạ trị ngoài với kỹ thuật xạ trị 3D-CRT và xạ trị áp sát suất liều cao HDR đã và đang được áp dụng từ hơn 10 năm qua, và gần đây có nhiều cơ sở đã áp dụng xạ trị áp sát HDR dưới hướng dẫn hình ảnh 3D. Tuy nhiên vẫn chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá vai trò hóa xạ trị phối hợp triệt căn đối với ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến xa tại chỗ tại vùng đặc biệt phân tích đánh giá theo hướng dẫn của ICRU 50/62,83. Chính vì vậy, việc thiết lập nghiên cứu, đánh giá ưu điểm của kỹ thuật xạ ngoài 3D-CRT kết hợp xạ trị áp sát HDR- 3D, đánh giá kế hoạch điều trị, sự dung nạp của bệnh nhân ung thư cổ tử cung tiến triển là rất quan trọng và cần thiết. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Đánh giá kết quả hóa xạ trị đồng thời kết hợp xạ trị áp sát 3D suất liều cao trong ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến triển” tại Bệnh viện Ung Bướu Đà Nẵng, từ tháng 04/2024 đến tháng 06/2025 với 2 mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến triển tại chỗ.
2. Đánh giá kết quả điều trị ung thư cổ tử cung giai đoạn tiến triển bằng hóa xạ trị đồng thời kết hợp xạ trị áp sát suất liều cao 3D.