Tóm tắt
Trầm cảm là một rối loạn tâm thần thường gặp, đặc trưng bởi sự buồn chán, mất hứng thú hoặc niềm vui, ngủ không yên giấc hoặc chán ăn, cảm giác mệt mỏi và kém tập trung kéo dài trong ít nhất 2 tuần [1]. Tổ chức Y tế thế giới ước tính đến năm 2030, trầm cảm sẽ là nguyên nhân đứng thứ nhất về gánh nặng bệnh tật cho y tế toàn cầu [2]. Tỷ lệ trầm cảm ở nữ giới cao gấp gần hai lần so với nam giới [3]. Phụ nữ mang thai và sinh con có nguy cơ mắc trầm cảm cao [4]. Trên thế giới, trầm cảm ở phụ nữ mang thai và sau sinh là khá phổ biến, tỷ lệ trầm cảm trước sinh là 12,0% [5] và sau sinh là 13,0% [6].
Vấn đề trầm cảm trong thời gian mang thai có tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của các bà mẹ và những mối quan hệ xã hội khác của họ; cũng như kết quả của cuộc sinh và khả năng chăm sóc đứa trẻ sơ sinh; cũng như những tác động lâu dài đến sự phát triển về nhận thức và cảm xúc của đứa trẻ [7]. Những người mẹ mắc trầm cảm thường có những cảm xúc tiêu cực như buồn phiền, lo âu, căng thẳng, dễ cáu gắt [8]. Nghiêm trọng hơn, họ có thể xuất hiện ý định tự sát, tự hủy hoại bản thân và đứa con [9]. Trầm cảm còn liên quan đến việc gia tăng nguy cơ sử dụng chất gây nghiện hay thậm chí là hình thành ý định tự sát. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu còn cho thấy trầm cảm trong thời gian thai kỳ có liên quan đến sinh non, sinh nhẹ cân [10], [11]. Trầm cảm đối với phụ nữ mang thai nếu không được phát hiện và điều trị có thể làm tăng nguy cơ mắc các rối loạn tâm thần và ảnh hưởng đến sự phát triển về tinh thần và tính cách của trẻ trong tương lai [12], [13].
Trên thế giới đã có một số nghiên cứu tổng hợp các yếu tố nguy cơ của trầm cảm trước sinh bao gồm các dạng căng thẳng thường gặp trong cuộc sống, tiền sử trầm cảm, hỗ trợ xã hội kém, những trường hợp mang thai ngoài ý muốn, chất lượng mối quan hệ vợ chồng kém, bị lạm dụng tại thời điểm mang thai hoặc trước đây hoặc vấn đề liên quan đến trình trạng kinh tế xã hội thấp [7]. Rất nhiều dạng căng thẳng trong cuộc sống được xem là nguyên nhân gây ra trầm cảm trong thai kỳ. Ngoài ra, một trong các nguyên nhân chính làm cho hậu quả của trầm cảm trở nên trầm trọng, đó là phụ nữ thường thiếu kiến thức để nhận biết triệu chứng của trầm cảm và không tìm sự giúp đỡ khi có dấu hiệu trầm cảm [14], [15].
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về trầm cảm trước sinh cho nhiều kết quả khác biệt, tỷ lệ dao động từ 8,7% đến 37,4% [16],[17],[18]. Kết quả nghiên cứu khác nhau có thể do các đặc thù về văn hóa, xã hội và các yếu tố mang tính chất địa phương nhưng cũng có thể do sử dụng các thang đo khác và các điểm cắt khác nhau. Tuy nhiên những nghiên cứu này đều nhấn mạnh sự cần thiết phải sàng lọc và can thiệp kịp thời đối với trầm cảm trước sinh, nhằm bảo vệ sức khỏe của cả mẹ và thai nhi.
Ở Đà Nẵng, việc nghiên cứu tỷ lệ trầm cảm trước sinh ở phụ nữ mang thai vẫn còn hạn chế, vẫn còn chưa phân tích rõ các yếu tố liên quan cốt lõi đến tình trạng sức khỏe này để đề xuất các chính sách và chiến lược can thiệp phù hợp, hiệu quả cho địa phương. Chính vì những lý do trên, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu trầm cảm trước sinh và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại thành phố Đà Nẵng”, nhằm đưa ra bức tranh tổng thể về tình hình trầm cảm trước sinh và các yếu tố liên quan tại thành phố Đà Nẵng, qua đó nâng cao nhận thức của cộng đồng và cá nhân liên quan về vấn đề sức khỏe đáng quan tâm này, từ đó đề xuất các khuyến nghị thích hợp nhằm cải thiện các chương trình chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em tại địa phương.
Nghiên cứu với các mục tiêu như sau:
- Xác định tỷ lệ trầm cảm trước sinh ở phụ nữ mang thai tại thành phố Đà Nẵng theo thang đo EPDS.
- Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến trầm cảm trước sinh của đối tượng nghiên cứu.