SDH.CK2 Nghiên cứu thực trạng kiệt sức nghề nghiệp và một số yếu tố liên quan của nhân viên y tế ở Khoa Hồi sức tích cực và Khoa Cấp cứu tại các bệnh viện tuyến tỉnh thuộc tỉnh Lâm Đồng
PDF Download: 1 View: 4

Tóm tắt

Kiệt sức nghề nghiệp được mô tả lần đầu tiên năm 1974 bởi nhà tâm lý học Herbert Freudenberger, ông định nghĩa kiệt sức nghề nghiệp là hiện tượng cạn kiệt cảm xúc trong công việc, dẫn đến tư duy công việc không hiệu quả, bắt nguồn từ những căng thẳng trong thời gian dài, đặc trưng bởi các triệu chứng khó chịu, mệt mỏi, thất vọng, tự nghi ngờ và giảm hiệu quả. Trong xã hội hiện đại, kiệt sức nghề nghiệp đang ngày càng phổ biến và từ lâu đã được công nhận là một vấn đề sức khỏe đáng quan tâm.

Nhân viên y tế là một trong những nhóm đối tượng có nguy cơ cao gặp phải tình trạng kiệt sức nghề nghiệp, do thường xuyên phải tiếp xúc với các yếu tố gây căng thẳng nghề nghiệp như khối lượng công việc cao, sự kỳ vọng của bệnh nhân cũng như người thân, hỗ trợ xã hội thấp… Đặc biệt đối khoa Hồi sức tích cực và khoa Cấp cứu với tính chất công việc đòi hỏi sự nhanh chóng, chính xác cao trong môi trường nhiều áp lực về thời gian, lượng bệnh nhân và áp lực từ người nhà bệnh nhân, đồng thời thường xuyên đối mặt với những trường hợp bệnh nặng, ranh giới giữa sự sống và cái chết, những yêu cầu cao về kỹ thuật về chuyên môn nghiệp vụ.... dẫn tới tỉ lệ kiệt sức nghề nghiệp ở nhóm đối tượng này luôn ở mức cao. Tỉ lệ kiệt sức nghề nghiệp ở nhân viên y tế luôn cao hơn các ngành nghề khác, thậm chí tỉ lệ này có thể lên tới hơn 80% trong nhiều nghiên cứu và so với các chuyên ngành khác thì tỉ lệ kiệt sức nghề nghiệp ở nhân viên y tế khoa Hồi sức tích cực và khoa Cấp cứu luôn cao hơn.

Kiệt sức nghề nghiệp gây nên nhiều tác động lên sức khỏe thể chất và tâm thần của nhân viên y tế, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra kiệt sức là một trong những nguyên nhân gây ra các triệu chứng đau đầu, mất ngủ, rối loạn tiêu hóa, thậm chí bệnh lý về tim mạch…, bên cạnh đó nó còn gây ra cảm giác thất vọng, bực bội, cảm xúc tiêu cực, hoài nghi…. Không những thế kiệt sức nghề nghiệp còn gây ảnh hưởng tới hiệu quả công việc, làm gia tăng sai sót chuyên môn, tăng nguy cơ mất an toàn người bệnh, giảm sút chất lượng dịch vụ y tế, tăng tỉ lệ nghỉ việc ở nhân viên y tế.

Kiệt sức nghề nghiệp có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bao gồm đặc điểm của chính bản thân nhân viên y tế như tính cách, khả năng ứng phó với căng thẳng, đặc điểm công việc như khối lượng công việc, các mối quan hệ trong công việc và cả những yếu tố liên quan đến cơ chế, quản lý của các cấp.

Tại Việt Nam kiệt sức nghề nghiệp ở nhân viên y tế vẫn chưa có sự quan tâm thỏa đáng. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, kiệt sức nghề nghiệp ở Việt Nam có tỉ lệ khá cao và có sự khác biệt giữa từng khu vực, giữa các tuyến, các chuyên khoa. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Bích và cộng sự tại một bệnh viện hạng 1 ở thành phố Hồ Chí Minh ghi nhận tỉ lệ kiệt sức nghề nghiệp lên tới hơn 75%, trong đó nhân viên khối hồi sức – cấp cứu có tỉ lệ kiệt sức nghề nghiệp cao hơn nhân viên chuyên khoa khác.

Trên thế giới và tại Việt Nam có rất ít nghiên cứu đánh giá riêng tình trạng kiệt sức nghề nghiệp ở nhân viên y tế làm việc tại khoa hồi sức tích cực và khoa cấp cứu, đặc biệt tại khu vực Tây Nguyên chúng tôi chưa tìm được nghiên cứu nào về vấn đề này. Đồng thời với mong muốn tìm hiểu sâu sắc thêm tình trạng kiệt sức nghề nghiệp và các yếu tố liên quan đến tình trạng này, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu thực trạng kiệt sức nghề nghiệp và một số yếu tố liên quan của nhân viên y tế ở Khoa Hồi sức tích cực và Khoa Cấp cứu tại các bệnh viện tuyến tỉnh thuộc tỉnh Lâm Đồng” với hai mục tiêu:

  1. Mô tả thực trạng kiệt sức nghề nghiệp theo thang đo CBI-V của nhân viên y tế làm việc ở Khoa Hồi sức tích cực và Khoa Cấp cứu tại các bệnh viện tuyến tỉnh thuộc tỉnh Lâm Đồng;
  2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kiệt sức nghề nghiệp ở đối tượng nghiên cứu.
PDF Download: 1 View: 4