Tóm tắt
Kiểm soát đau là một trong những yếu tố giúp đánh giá chất lượng của phẫu thuật cũng như là một thành phần quan trọng giúp hồi phục sớm sau mổ. Ngày nay, với mô hình giảm đau đa mô thức và xu hướng hạn chế sử dụng morphin do các tác dụng phụ không mong muốn sau mổ thì gây tê vùng trở thành một thành tố cần thiết và ngày càng phát triển trong thực hành lâm sàng. Phẫu thuật cắt thận nội soi đang ngày càng phổ biến và dần dần thay thế phương pháp mổ mở truyền thống. Dù đường mổ nhỏ nhưng cắt thận nội soi vẫn gây đau cho bệnh nhân do vết mổ, do bóc tách hố thận, do kích thích cơ hoành, phúc mạc và do bơm hơi trong ổ bụng. Với sự hỗ trợ của siêu âm, kỹ thuật gây tê mặt phẳng cơ dựng sống ngày càng hoàn thiện hơn, giúp giảm tỉ lệ thất bại và tần suất xuất hiện biến chứng so với phương pháp xác định bằng mốc giải phẫu truyền thống.
Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Hiệu quả giảm đau của gây tê mặt phằng cơ dựng sống trong phẫu thuật cắt thận nội soi” với các mục tiêu:
- Đánh giá hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật của phác đồ đa mô thức có hoặc không gây tê mặt phẳng cơ dựng sống trên bệnh nhân cắt thận nội soi.
- Khảo sát sự thay đổi các thông số về mạch, huyết áp, SpO2, sự hài lòng và các tác dụng không mong muốn sau phẫu thuật ở hai nhóm bệnh nhân trên.
Tất cả các bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật nội soi cắt thận đều được tư vấn tham gia nghiên cứu.
Nếu bệnh nhân đồng ý sẽ ký giấy xác nhận tự nguyện tham gia và tiến hành chia ngẫu nhiên vào 2 nhóm bằng bốc thăm ngẫu nhiên, nếu sổ lẻ thì vào nhóm 1 và số chẵn thì vào nhóm 2:
Nhóm 1 (ESP): Nhóm can thiệp, giảm đau với PCA morphin, paracetamol, nefopam, gây tê mặt phẳng cơ dựng sống vị trí mỏm ngang đốt sống ngực 8 với 30ml ropivacaine 0,375% khi kết thúc phẫu thuật
Nhóm 2: Nhóm chứng, giảm đau với PCA morphin, paracetamol, nefopam.
Theo dõi và ghi nhận lượng morphin sử dụng giữa 2 nhóm, thang điểm đau VAS trong 24 giờ đầu sau mổ và các tác dụng phụ khác.