Tóm tắt
Trong những thập kỷ gần đây, thế giới đang chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ về cấu trúc dân số với xu hướng già hóa rõ rệt. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đến năm 2050, ước tính sẽ có khoảng 2 tỷ người trên 60 tuổi, chiếm gần 22% dân số toàn cầu, so với 12% vào năm 2015.
Cùng với sự gia tăng tuổi thọ là sự xuất hiện ngày càng nhiều của các bệnh mạn tính không lây, đặc biệt là các bệnh lý tim mạch là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và tàn phế toàn cầu. Đặc biệt, rối loạn nhịp tim là một trong những biểu hiện phổ biến, có thể đơn độc hoặc đi kèm với các bệnh lý khác như tăng huyết áp, suy tim, bệnh mạch vành. Ở người cao tuổi, RLNT không chỉ gây ra các triệu chứng như hồi hộp, choáng váng, ngất mà còn có thể là yếu tố khởi phát các biến cố tim mạch nghiêm trọng như đột quỵ do rung nhĩ, hoặc tử vong do rối loạn nhịp thất ở người cao tuổi. Tuổi cao là yếu tố nguy cơ độc lập của rối loạn nhịp tim. Ở người già, loạn nhịp tim là một nguyên nhân quan trọng của tử vong, suy giảm khả năng vận động và thường xuyên phải nhập viện.Nghiên cứu của Khurshid và cộng sự trên hơn 500.000 người, cho thấy 2,35% biểu hiện bất thường nhịp tim ban đầu, với tỷ lệ mắc bệnh tăng theo tuổi. Trong nhóm này, Rung nhĩ, nhịp tim chậm và các bệnh về hệ thống dẫn truyền phổ biến hơn loạn nhịp thất và trên thất . Tỷ lệ rối loạn nhịp tim, cả nhịp chậm và nhịp nhanh, tăng theo tuổi tác. Độ tuổi trung bình của những người được cấy máy tạo nhịp tim do nhịp chậm ở Hoa Kỳ là 75 tuổi với hơn 80% máy tạo nhịp tim được cấy ghép cho những người từ 65 tuổi trở lên . RLNT không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống mà còn là nguyên nhân gây đột quỵ, suy tim và tử vong sớm nếu không được phát hiện và can thiệp kịp thời .
Trong bối cảnh đó, Holter điện tâm đồ 24 giờ đã trở thành một phương tiện hữu hiệu, giúp ghi nhận liên tục hoạt động điện học của tim trong suốt một ngày đêm. Theo dõi Holter 24 giờ tốt hơn điện tâm đồ 12 chuyển đạo trong việc phát hiện các bất thường về nhịp tim nhanh và chậm ở bệnh nhân cao tuổi và nên được khuyến nghị bất cứ khi nào các triệu chứng lâm sàng chỉ ra nguy cơ loạn nhịp từng đợt hoặc khi bệnh nhân cao tuổi mắc bệnh có nguy cơ loạn nhịp cao . Phương pháp này cũng được sử dụng để phát hiện các đợt thiếu máu cơ tim thầm lặng và trong việc đánh giá nhiều triệu chứng không đặc hiệu khác nhau như hồi hộp, choáng váng, ngất xỉu, cơn ngất xỉu và đau ngực không điển hình.
Bên cạnh việc phát hiện RLNT, Holter điện tâm đồ còn cho phép phân tích biến thiên nhịp tim (HRV) chỉ số phản ánh khả năng điều hòa tim của hệ thần kinh tự động. HRV suy giảm được chứng minh có liên quan đến rối loạn chức năng tim mạch, tăng nguy cơ biến cố tim mạch như nhồi máu cơ tim, đột tử do tim, suy tim và tử vong (34).Ở người cao tuổi, HRV có xu hướng giảm dần theo tuổi, đồng thời bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như stress oxy hóa, viêm mạn tính, bệnh lý nền như tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh thận mạn. HRV thấp có thể là dấu hiệu sớm của mất cân bằng thần kinh giao cảm và phó giao cảm, là yếu tố nguy cơ độc lập của các rối loạn nhịp nghiêm trọng (19).
Mặc dù trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về RLNT và HRV, song tại Việt Nam, các nghiên cứu sử dụng Holter điện tâm đồ 24 giờ để khảo sát đồng thời hai vấn đề này ở người cao tuổi còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào các nhóm bệnh cụ thể như sau nhồi máu cơ tim, đái tháo đường, hoặc tăng huyết áp (9, 10). Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu rối loạn nhịp và biến thiên nhịp tim bằng Holter điện tâm đồ 24 giờ ở người cao tuổi” với hai mục tiêu:
1. Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng rung nhĩ và các các thông số trên Holter điện tâm đồ 24 giờ ở người cao tuổi.
2. Đánh giá mối liên quan và tương quan giữa rối loạn nhịp với thể tích nhĩ trái, phân suất tống máu thất trái, chỉ số khối cơ thất trái và biến cố MACE ở người cao tuổi.