Tóm tắt
Mổ lấy thai được định nghĩa là phẫu thuật lấy thai và nhau thai ra khỏi tử cung qua đường rạch trên thành bụng và là một trong những loại phẫu thuật phổ biến nhất trong các phòng mổ tại Mỹ. Theo nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tỷ lệ sinh mổ trên toàn cầu đã và đang có xu hướng tăng, từ khoảng 7% vào năm 1990 lên 21% ở hiện nay. Xu hướng này được dự đoán sẽ tiếp tục tăng trong thập kỷ hiện tại với tỷ lệ toàn cầu dự kiến là 29% vào năm 2030. Nguyên nhân phổ biến bao gồm chuyển dạ đình trệ, thai suy, ngôi ngược,....
Sự gia tăng nhanh chóng của tỷ lệ MLT cũng đã được quan sát ở Việt Nam. Nghiên cứu của Nguyễn Duy Ánh, tỷ lệ mổ lấy thai tại Việt Nam năm 2020 là 40,7%. Mặc dù sinh mổ có thể là biện pháp cần thiết để cứu sống khi có chỉ định y tế nhưng phẫu thuật này có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ bà mẹ và trẻ em như nguy cơ như chảy máu, tăng nhu cầu truyền máu, nhiễm trùng, thời gian phục hồi chậm hơn sinh thường, chậm trễ trong việc cho con bú hay tăng khả năng biến chứng thai kỳ trong tương lai. Nghiên cứu của Jane Sandall được đăng tải trên Lancet đưa ra bằng chứng MLT làm tăng tỷ lệ tử vong mẹ và mắc các bệnh nghiêm trọng của bà mẹ so với sinh đường âm đạo do nguy cơ vỡ tử cung, bất thường nhau thai (nhau tiền đạo, nhau cài răng lược), thai ngoài tử cung, thai chết lưu và sinh non cao hơn. Ở Việt Nam, tỷ lệ mổ lấy thai dao động ở các khu vực. Nghiên cứu tình hình mổ lấy thai con so ở BV ĐHYD Huế của Trần Trà Giang năm 2024 là 44,6%. Việc nghiên cứu tình hình mổ lấy thai và các yếu tố liên quan làm tăng nguy cơ sinh mổ ở sản phụ mang thai con so đóng vai trò quan trọng.
Nghiên cứu mô hình dự đoán nguy cơ mổ lấy thai đã được nghiên cứu ở nhiều quốc gia. Mô hình dự đoán nguy cơ MLT giúp giảm tỷ lệ MLT và là công cụ hỗ trợ cho các bác sĩ trong quá trình theo dõi và xử trí bệnh, dự đoán xác suất MLT cá thể hoá ở từng bệnh nhân, từ đó, giúp trấn an sản phụ về khả năng thành công và khuyến khích sinh đường âm đạo cũng như nguy cơ MLT cao, sẽ gặp khó khăn trong quá trình chuyển dạ, đến mức sản phụ nên tránh theo dõi chuyển dạ.
Năm 2017, Janssen và cộng sự đã phát triển một mô hình có thể dự đoán MLT ở phụ nữ khỏe mạnh mang thai con so tại Canada với độ chính xác 71% dựa trên các yếu tố có thể đo lường được khi nhập viện bao gồm tuổi mẹ, chiều cao, tuổi thai, khả năng nhận biết chuyển dạ, xoá mở cổ tử cung, go tử cung, độ lọt ngôi thai, cân nặng ước lượng thai nhi. Năm 2023, Linnea Ladfor đã áp dụng mô hình Janssen và kết quả phân tích cho biết mô hình Janssen có khả năng dự đoán tốt nguy cơ mổ lấy thai. Sử dụng mô hình dự đoán nguy cơ mổ lấy thai như một phần của kiểm tra lâm sàng và không dùng để quyết định xử trí trong thực hành lâm sàng và không thể thay thế cho việc thăm khám lâm sàng. Vì vậy, các nhà nghiên khuyến khích tiếp tục kiểm định các mô hình dự báo nguy cơ đặc biệt trong chiến lược nhằm tối ưu hoá việc sử dụng mô hình mổ lấy thai trong hệ thống y tế.
Cho đến nay, hiệu quả của việc áp dụng mô hình Janssen vào thực hành lâm sàng vẫn chưa có nhiều báo cáo. Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên đề tài: “Nghiên cứu mô hình Janssen trong dự báo nguy cơ mổ lấy thai ở sản phụ mang thai con so đủ tháng” với hai mục tiêu:
Mục tiêu 1: Khảo sát các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết cục thai kỳ của sản phụ mang thai con so đủ tháng
Mục tiêu 2: Đánh giá các yếu tố liên quan và mô hình Janssen trong dự báo nguy cơ mổ lấy thai ở sản phụ mang thai con so đủ tháng.

