Tóm tắt
Ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG) là bệnh ung thư phổ biến thứ sáu trên toàn cầu và là nguyên nhân hàng đầu thứ ba gây tử vong liên quan đến ung thư [1]. Ung thư gan là yếu tố đóng góp chính vào gánh nặng ung thư toàn cầu, cho thấy nhu cầu cấp bách về các biện pháp kiểm soát, điều trị và phòng ngừa hiệu quả. Khoảng 866.136 trường hợp mới đã được báo cáo trên thế giới vào năm 2022, cùng với 758.725 ca tử vong [2]. Các dự báo chỉ ra rằng vào năm 2040, số trường hợp mới phát hiện ung thư gan có thể tăng lên đến 1.392.474, phản ảnh thách thức về sức khỏe cộng đồng ngày càng gia tăng đáng kể [3].
Có sự khác biệt đáng chú ý về tỷ lệ mắc ung thư gan, tỷ lệ tử vong và tỷ lệ sống sót ở các khu vực, nhóm tuổi và giới tính. Sự không đồng nhất cho thấy rằng các phương pháp tiếp cận phù hợp là cần thiết để giải quyết các nhu cầu cụ thể của các quần thể khác nhau [4]. Khoảng 80% trường hợp ung thư gan xảy ra ở Châu Phi cận Sahara và khu vực Đông Á, những khu vực có tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B mạn tính cao [5]. Theo thống kê, tỷ lệ mắc và tử vong do ung thư gan cho mỗi 100.000 dân năm 2018 cao nhất ở Đông Á lần lượt là 17,7 và 16,0. Thống kê tại Việt Nam năm 2018 cho thấy tỷ lệ mắc ung thư gan là 23,2/100.000 dân [6].
Hiện tại, có nhiều phương pháp điều trị UTBMTBG như phẫu thuật cắt gan, ghép gan, phá hủy khối u tại chỗ bằng sóng cao tần (RFA), bằng vi sóng (MWA), bằng tiêm cồn, nút mạch hóa chất… tùy thuộc vào các giai đoạn bệnh khác nhau. Bên cạnh ghép gan, phẫu thuật cắt bỏ khối u gan, phương pháp phá hủy u khối u gan tại chỗ được xem là phương pháp điều trị triệt để và ít xâm lấn nhất. Phẫu thuật chỉ được xem xét trên bệnh nhân tổng trạng tốt, chức năng gan cho phép, trong khi ghép gan tại Việt Nam chưa phổ biến, chỉ được thực hiện số ít ở các bệnh viện lớn. Sự xuất hiện của nhiều loại thuốc nhắm trúng đích thế hệ mới đã làm tăng cơ hội điều trị và kéo dài cuộc sống cho những bệnh nhân giai đoạn muộn. Ngày nay điều trị UTBMTBG đa mô thức bằng việc phối hợp nhiều phương pháp điều trị trên cùng một bệnh nhân giúp tạo nhiều cơ hội điều trị hiệu quả cho nhiều bệnh nhân. Phương pháp phá hủy khối u gan bằng đốt nhiệt cao tần và đặc biệt là đốt vi sóng (ĐVS) ngày càng được áp dụng rộng rãi do tính hiệu quả cao và ít biến chứng, thay thế dần phương pháp phá hủy u gan bằng tiêm cồn, tiêm acetic acid trước kia. So với đốt nhiệt cao tần, ĐVS tỏ ra ưu thế hơn đối với các khối u kích thước lớn và khối u gần mạch máu. Tại Việt Nam nói chung và tại bệnh viện Trung ương Huế nói riêng, điều trị phá hủy u bằng đốt vi sóng mới được áp dụng trong vài năm gần đây và đã cho kết quả ban đầu khả quan. Đã có nhiều nghiên cứu về tính ứng dụng của phương pháp điều trị phá hủy u bằng đốt vi sóng trên thế giới nhưng tại Việt Nam, đặc biệt là Bệnh viện Trung ương Huế chưa có nhiều nghiên cứu để đánh giá hiệu quả và an toàn của phương pháp này. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi thực hiện đề tài: “ Đánh giá kết quả điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp đốt vi sóng có gây mê dưới hướng dẫn của siêu âm” nhằm 2 mục tiêu:
- Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của các bệnh nhân UTBMTBG được điều trị bằng phương pháp đốt vi sóng
- Đánh giá kết quả điều trị UTBMTBG bằng phương pháp đốt vi sóng

