Tóm tắt
Xương gót là xương ở vị trí thấp nhất và lớn nhất trong khối xương ở cổ chân, chịu trọng tải theo trục của cơ thể
Gãy xương gót là loại gãy xương khá phổ biến, chiếm 2% tất cả các trường hợp gãy xương và 60% các trường hợp chấn thương vùng cổ chân. Trong đó gãy nội khớp chiếm từ 70% đến 75%.
Gãy xương gót thường là do chấn thương năng lượng cao, do ngã từ trên cao xuống nên thường có kèm theo các chấn thương phối hợp khác. Gãy xương gót hở là chấn thương tương đối hiếm gặp chiếm từ 0.8% đến 10% các trường hợp.
Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán gãy xương gót. X quang quy ước vẫn còn được dùng nhiều nhất và là chỉ định đầu tiên cũng như thường quy trong các trường hợp nghi ngờ gãy xương gót hay có các biến dạng của vùng cổ - bàn chân. Trong đó sự bất thường của các góc xương gót là chỉ số được sử dụng nhiều nhất trên lâm sàng. Bên cạnh đó, các giá trị còn lại về mặt hình ảnh học trên X quang xương gót tiêu chuẩn như độ cao, độ rộng, chiều dài xương gót cũng cung cấp thêm các giá trị trong tiên lượng và điều trị gãy nội khớp xương gót.
So với X quang, cắt lớp vi tính cung cấp nhiều chi tiết hơn trong việc chẩn đoán giúp các bác sĩ điều trị có thể đánh giá chi tiết và toàn diện hơn về tổn thương xương gót cũng như các tổn thương phối hợp khác, đặc biệt với khả năng dựng hình 3D kĩ thuật này giúp quan sát tổn thương từ nhiều góc độ góp phần phân loại tổn thương chính xác nhất nhằm lựa chọn phương thức điều trị phù hợp. Hiện nay phân loại gãy xương gót của Sander năm 1993 dựa trên hình ảnh chụp cắt lớp vi tính xương gót được ứng dụng nhiều trên lâm sàng.
Từ khi có chụp cắt lớp vi tính phương pháp phẫu thuật kết hợp xương gót đã được đề cập đến khi mà trước đây các trường hợp gãy xương gót phạm khớp có di lệch mặt khớp chủ yếu là được điều trị bảo tồn. Đối với các trường hợp gãy nội khớp xương gót, việc nắn chỉnh bằng điều trị bảo tồn thường khó đạt kết quả mong muốn và thường dẫn đến liền xương xấu, thoái hóa khớp dưới sên. Trong khi đó, phương pháp mổ hở và kết hợp xương bên trong cho thấy có thể phục hồi về mặt giải phẫu xương gót và mặt khớp dưới sên, do đó phương pháp này hiện tại đang được áp dụng rộng rãi trong điều trị gãy nội khớp xương gót. Mặc dù vậy, chiến lược điều trị cho gãy xương gót hiện tại vẫn còn tranh cãi, chủ yếu vẫn là do thiếu các bằng chứng khoa học có tính tin cậy cao, hiện tại phân độ dựa vào hình ảnh CT scan của Sander và đánh giá góc Bohler trên X quang tiêu chuẩn là các thông tin thường được dùng để chẩn đoán và đưa ra chọn lựa điều trị .
Tuy nhiên ở nước ta chưa có nhiều nghiên cứu đi sâu vào phân tích đặc điểm hình ảnh X quang và cắt lớp vi tính của gãy xương gót. Xuất phát từ thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh xquang và cắt lớp vi tính gãy xương gót do chấn thương” nhằm hai mục tiêu sau:
- Mô tả đặc điểm hình ảnh xquang và cắt lớp vi tính gãy xương gót do chấn thương.
- Khảo sát giá trị bổ sung của cắt lớp vi tính so với Xquang trong chẩn đoán và phân loại gãy xương gót do chấn thương.