Tóm tắt
- Hội chứng ống cổ tay (Carpal Tunnel Syndrome) được Sir James Paget mô tả đầu tiên từ năm 1854, là tình trạng bệnh lý chèn ép dây thần kinh ngoại biên hay gặp nhất [1], hội chứng này xảy ra khi thần kinh giữa bị chèn ép trong ống cổ tay.
- Tỷ lệ mắc hội chứng ống cổ tay (HCOCT) ngày càng tăng lên do nhu cầu công việc có sử dụng nhiều cổ tay, các động tác tỉ mỉ, lặp đi lặp lại, kết hợp với sự hiểu biết của thầy thuốc và bệnh nhân được nâng cao, sự ra đời của các phương pháp hiện đại nhờ điện sinh lý thần kinh, siêu âm giúp cho việc phát hiện bệnh được sớm hơn [2],[3].
- Ở nước ta chưa có thông kê chính thức nào về HCOCT. Những thống kê ở Mỹ cho thấy tỷ lệ mắc hội chứng ống cổ tay hàng năm khoảng 50/1000 người, ở nhóm nguy cơ cao tỷ lệ này có thể tăng lên gấp nhiều lần [2]. Một nghiên cứu từ UK General Practice Research Database vào năm 2000, tỉ lệ mắc ở nam là 88 trên 100.000 và nữ là 193 trên 100.000 thường gặp ở lứa tuổi 45 -54 ở nữ và 75- 84 tuổi ở nam [47]. Ở Nhật Bản theo thống kê năm 2020, tỉ lệ hội chứng ống cổ tay là 4,7% ở lứa tuổi 50 – 89 [27].
- Hậu quả của việc chèn ép dây thần kinh giữa là gây ra đau, giảm hoặc mất cảm giác vùng da bàn tay thuộc chi phối của dây thần kinh này, nặng hơn nữa có thể dẫn đến teo cơ, làm giảm chức năng vận động của bàn tay.
- Nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh có thể khỏi hoàn toàn, ngược lại nếu để muộn sẽ làm giảm khả năng phục hồi của dây thần kinh, để lại tổn thương và di chứng kéo dài ảnh hưởng rất nhiều đến sinh hoạt và công việc. Với sự phát triển của y học cùng các kỹ thuật thăm dò cận lâm sàng hiện đại đã giúp cho các thầy thuốc tìm hiểu rõ hơn về cơ chế bệnh sinh, nguyên nhân gây bệnh cũng như đạt được những tiến bộ đáng kể trong chẩn đoán và điều trị hội chứng ống cổ tay.
- Điều trị nội khoa được chỉ định với những bệnh nhân đến trong giai đoạn sớm của bệnh, bệnh nhân được uống thuốc chống viêm hoặc tiêm corticoid tại ống cổ tay kết hợp sử dụng nẹp cổ tay làm giảm triệu chứng nhanh, tuy nhiên tỷ lệ triệu chứng tái phát sớm khá cao [6],[7].
- Điều trị phẫu thuật cắt dây chằng ngang cổ tay (DCNCT), giải phóng OCT là phương pháp điều trị triệt để nhất, chỉ định khi bệnh nhân đến trong giai đoạn trung bình trở lên, điều trị nội khoa thất bại [7], phẫu thuật này được thực hiện đầu tiên bởi Sir James Learmonth từ năm 1929 (báo cáo năm 1933) [8],[9]. Các phương pháp mổ mở truyền thống, mổ mở ít xâm lấn được áp dụng từ lâu.
- Có nhiều cách phân loại được đưa ra để đánh giá mức độ nặng của bệnh trên lâm sàng như thang điểm Boston, phân độ nặng theo Rosenbaum và Ochoa, Foucault et al, Katz và Stirrat,...Trong đó sự khuyết tật của cánh tay, vai và bàn tay (The Disabilities of the Arm, Shoulder and Hand -DASH) là thang điểm được phát triển bởi Hudak et al. vào năm 1996 để đánh giá các triệu chứng và chức năng vận động của bệnh nhân mắc bệnh lý của chi trên và đã được chứng minh là đáng tin cậy trong việc đánh giá mức độ nặng HCOCT [28]. Bên cạnh đó, sự đánh giá nhanh khuyết tật của cánh tay, vai và bàn tay (The Quick Disabilities of Arm, Shoulder and Hand - QuickDASH) là một thang điểm rút gọn và cải tiến của thang điểm DASH, đồng thời độ chuẩn xác và độ tin cậy trong phiên bản Thổ Nhĩ Kỳ đã được chứng minh ở bệnh nhân mắc HCOCT [49][53]. Năm 2018, Yasemin Eren et al đã tiến hành nghiên cứu mối quan hệ giữa thang điểm QDASH với lâm sàng, điện cơ đồ ở các bệnh nhân mắc HCOCT cho thấy có tương quan dương giữa điểm QDASH với mức độ đau theo VAS, thời gian và biểu hiện đau trên lâm sàng của bệnh nhân.
- Ở Việt Nam, các nghiên cứu về Quick DASH trong đánh giá kết quả điều trị HCOCT không nhiều. Do đó, với mục đích bổ sung thêm dữ liệu về các giá trị nghiên cứu để có thể áp dụng thang điểm trên thực hành lâm sàng, nhằm nâng cao chất lượng chẩn đoán và theo dõi đáp ứng điều trị phẫu thuật của bệnh nhân, qua đó góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh, chúng tôi tiến hành triển khai đề tài Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, và các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật điều trị hội chứng ống cổ tay sử dụng thang điểm đánh giá QDASH.