Tóm tắt
Trên thế giới, ung thư đại trực tràng đứng hàng thứ hai về tỉ lệ mắc mới và tỉ lệ tử vong do ung thư. Phẫu thuật xâm lấn tối thiểu đối với ung thư đại tràng được ứng dụng rộng rãi và đã trở thành tiêu chuẩn trong điều trị phẫu thuật chương trình cắt đại trực tràng, dần thay thế phẫu thuật hở. Tương tự như kỹ thuật TME trong phẫu thuật ung thư trực tràng, kỹ thuật CME được phát triển và áp dụng cho thấy tỉ lệ nạo vét hạch tăng đáng kể.
Chương trình phục hồi sớm sau mổ được biết đến rộng rãi trong phẫu thuật nói chung và phẫu thuật tiêu hóa nói riêng. Đối với phẫu thuật đại trực tràng ERAS được áp dụng tiên phong từ năm 1995 bởi GS Henrik Kehlet. Cho đến nay việc áp dụng ERAS cho thấy tính an toàn và hiệu quả cho bệnh nhân phẫu thuật đại trực tràng mổ chương trình. Chương trình phục hồi sớm sau phẫu thuật làm rút ngắn thời gian nằm viện sau phẫu thuật bằng cách thúc đẩy sự phục hồi sớm và giảm các biến chứng sau phẫu thuật qua đó làm giảm chi phí điêu trị trong quá trình nằm viện. Đây là chương trình với sự tiếp cận đa phương thức, đa ngành, áp dụng đến nhiều giai đoạn của quá trình điều trị bao gồm trước nhập viện, trước phẫu thuật, trong quá trình phẫu thuật và hậu phẫu. Các tiêu chí ERAS điển hình liên quan đến tư vấn trước phẫu thuật, giảm thời gian nhịn ăn, tránh chuẩn bị ruột, gây mê tối ưu phác đồ, sử dụng gây mê đa phương thức, cân bằng dịch trước trong sau mổ, tránh đặt ống thông mũi dạ dày và dẫn lưu trong ổ bụng, rút sonde tiểu sớm sau mổ và vận động sớm và sớm dung nạp tiêu hóa. Nhiều hiệp hội và tổ chức đưa ra các khuyến cáo trong việc áp dụng ERAS. Hiệp hội ERAS châu Âu đưa ra khuyến cáo đại trực tràng đầu tiên năm 2005 và cập nhật 4 lần năm 2018. Hiệp hội phẫu thuật đại trực tràng Hoa kỳ bản cập nhật lần 2 năm 2023. Về cơ bản các bên đều đồng thuận hầu hết các tiêu chí, riêng về chuẩn bị đại tràng có sự khác nhau.